Trang Chủ Chương Trình Phát Thanh Pháp Âm Quà Tặng Âm Nhạc Hình Ảnh Sinh Hoạt Vài Dòng Lưu Niệm Phim Truyện Phật Giáo và Phim Lễ Hội Tu Viện Hương Nghiêm Web Master
  Đức Phật dạy :  Quá khứ không truy tìm, Tương lai không ước vọng; Quá khứ đã đoạn diệt, Tương lai thì chưa đến; Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ quán chính ở đây; Không động không rung chuyển, Biết vậy nên tu tập
      Giới Thiệu
      Tin Tức Sinh Hoạt
      Kinh Tạng
      Luật Tạng
      Luận Tạng
      Phật Học Căn Bản
      Tư Tưởng Phật Học
      Lịch Sử Phật Giáo
      Thiền Học Phật Giáo
      Triết Học Phật Giáo
      Văn Học Phật Giáo
      Giáo Dục Phật Giáo
      Nghi Lễ Phật Giáo
      Từ Bi Foundation
      GĐPT Huyền Quang
      Truyên Phật Giáo
Nhập Từ khóa cần tìm:
Xin nhập Tiếng Việt đã có sẳn:
    
Tin Cập Nhật
Tin Tức Phật Giáo Tuần Thứ 2 Tháng 12 Năm 2024
Tin Tức Phật Giáo Tuần Thứ 1 Tháng 12 Năm 2024
Tin Tức Phật Giáo Tuần Thứ 3 Tháng 11 Năm 2024
Tin Tức Phật Giáo Tuần Thứ 2 Tháng 11 Năm 2024
Tin Tức Phật Giáo Tuần Thứ 1 Tháng 11 Năm 2024
Tin Tức Phật Giáo Tuần Thứ 4 Tháng 10 Năm 2024
Tin Tức Phật Giáo Tuần Thứ 3 Tháng 10 Năm 2024
Tin Tức Phật Giáo Tuần Thứ 1 Tháng 10 Năm 2024
Tin Tức Phật Giáo Tuần Thứ 2 Tháng 9 Năm 2024
Tâm Thư Cứu Trợ
      Trang Chi Tiết
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Con Đường Giải Thoát Giác Ngộ Của Phật Giáo
Tác giả: Phổ Nguyệt
     

 LỜI  TỰA
 Tưởng đến thế giới bên kia hay cõi vô hình, con người thường có những suy nghĩ mông lung, ảo tưởng và ngờ vực đắn đo không biết Có hay Không?
 Giấc mộng ngàn đời của con người là tìm về cõi sống vĩnh hằng, Thiên Đàng hay Cực Lạc. Đó là giấc mơ mộng ảo, là những vọng tưởng triền miên, mà Phật gọi là những điều giả vọng của một thế giới hiện tượng vô thường; vậy thì thế giới thường hằng ở đâu?
 Thật vậy, nếu có thế giới vô thường mà chúng ta, với thân tứ đại, đang sống ắt phải có thế giới thường hằng mà những người, không có thân tứ đại, đang hiện hữu. Nói theo lý luận trong thế giới tỷ lượng của sinh linh không giác ngộ mà xét thì có bóng ắt có hình; từ bóng chúng ta tìm hình là điều rất là hợp lý. Còn Phật, là chúng sinh đã giác ngộ, cái thấy như thật, vượt khỏi lý luận mà vẫn bao trùm luận lý, thì thế giới chơn không diệu hữu ắt không thể không có.
 Như khi ta thấy biết một con voi thì đó là một tri thức, được nhận lại cái thức (hình bóng) của con voi trong ký ức (Mạt Na Thức hay A Lại Da Thức). Như thế, ngay bây giờ và tại đây, mắt ta (ngũ giác quan) thấy con voi đi nữa, suy nghĩ kỹ thì sự thấy ấy vẩn sai lầm, vì lẽ mắt chỉ thấy ảnh của con voi ở võng mạc chúng ta mà thôi. Tuy cái Thấy sai lầm, nhưng cái Biết nhận được cái Thấy ấy là Thật là đúng. Con voi là Giả Danh, một đối tượng được gọi tên, nhưng cái Biết con voi là Thật, thì cái Biết đang hiện hữu và thường hằng, là cái Trí, còn con voi (Giả Danh) là cái Thức. Thức là cái bóng, không thật, cái Biết mới là thật.
 Đức Phật đã từng tư duy sâu sắc về chính cái tư duy ấy và đã đạt được Giác Ngộ tức là đã từ cái Giả cái Vọng mà Gặp Biết được cái Thật cái Chơn; đó là những phương pháp tư duy giúp Ngài Giải Thoát khỏi thế giới giả vọng vô thường mà đạt đến thế giới chơn thật thường hằng.
 Giác Ngộ là Giải Thoát. Đó là con đường mà Đức Phât  muốn phổ độ chúng sinh thoát khỏi bể khổ bến mê đến bờ cực lạc niết bàn. Cũng là những pháp môn trong giáo lý của Ngài giúp chúng sinh đạt đến mục đích tối hậu là Giác Ngộ Giải Thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử.
 Tuy nhiên, về mặt tri kiến thế gian thì đa dạng, con người bá nhân bá tánh nên tư duy có sự phân biệt và có nhiều tôn giáo với những giáo lý khác nhau. Dù vậy, trên mặt hình thức ngôn ngữ của cùng một xứ sở hay cùng dịa phương hay đoạn đường đi (một phần không gian hay hình thức giáo lý) có thể trùng hợp, không thể tránh khỏi, nhưng cứu cánh không thể nào giống nhau.
 Thời gian làm phát triển, thay cũ đổi mới, không gian biến chuyển sự kiện, thay đổi ngôn ngữ, đó là lịch trình huyễn hóa sự vật; những điều đó được lịch sử ghi lại.
 Hình thức, thời không, lịch sử của một con người dù có trùng hợp, nhưng mỗi người đều có đặc điểm riêng của nhân vị của mỗi người không ai giống ai. Ông A có tướng giống Ô. B về gương mặt, tướng đi, ăn mặc v.v... nhưng Ô. A vẫn là Ô. A, Ô. B là Ô. B, thì phải khác nhau về khía cạnh Danh, ngay cả Sắc nữa.
 Giáo lý của các tôn giáo tự nó là những mẫu mực để giúp con người noi gương hầu thực hành mà đạt đến mục đích của đạo, chỉ có con người với trí phân biệt nên sanh ra nhiều kiến chấp để rồi gây xung đột hiềm khích xuyên tạc tôn giáo ngoài mà quên mất chính đức tính tốt trong giới luật của đạo mình.
 Để khẳng định giáo lý của Phật hoàn toàn khác với các giáo lý của các tôn giáo khác, nhất là sự lầm lẫn giữa Bà La Môn Giáo và Phật Giáo, chúng tôi mạo muội xin có những nhận định  phần cốt tủy cứu cánh của Phật giáo để tỏ rõ các sự khác biệt ấy.

Phổ Nguyệt
Trước khi nhận thức được cứu cánh giáo lý của Phật Đà, điều căn bản là phải tìm hiểu, nhận diện rõ ràng đúng đắn Cái Tâm, vì lẽ ‘Tức Tâm Tức Phật’ là một nỗ lực lớn trong vấn đề tu học để hiển lộ được cái ‘Chân Tâm’ mà biết bao nhà đạo học trí giả không ngừng nghiên cứu thực hành và có những thành quả thể nghiệm khác nhau. Dù Nguyên Thủy hay Đại Thừa cũng đều có những đóng góp to lớn trong sự tri

Nguồn: Phổ Nguyệt
Số người xem: 5344      In Bài Này     Xem Góp Ý     Góp Ý
    Những Bài cùng Thể Loại :
Cốt Tủy kinh Duy Ma Cật
Khắc Phục Định Kiến Và Tập Khí Chỉ Lo Nghĩ Cho Bản Thân
Bốn Pháp Tu Chứng Kinh Hoa Nghiêm
Pháp Trực Chỉ Minh Tâm Kiến Tánh Thành Phật
Con Đường Tây Phương
Cõi Giới Cực Lạc
Cốt Tủy của kinh Viên Giác
Đặc Tính của Tâm và Pháp hay Kinh Giáo Giới Nandaka và Channa
Pháp Thể Nhập Tri Kiến Phật (Kinh Pháp Hoa)
Yếu Chỉ kinh Nhất Dạ Hiền
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 ...
Kinh Pháp Cú
Nếu thấy bậc hiền trí,
Chỉ lối và khiển trách,
Như chỉ chỗ chôn vàng,
Hãy thân cận người trí!
Thân cận người như vậy,
Chỉ tốt hơn, không xấu
Những người hay khuyên dạy,
Ngăn người khác làm ác,
Được người hiền kính yêu,
Bị người ác không thích.
Chớ thân với bạn ác,
Chớ thân kẻ tiểu nhân,
Hãy thân người bạn lành,
Hãy thân bậc thượng nhân.
Pháp hỷ đem an lạc,
Với tâm tư thuần định,
Người trí thường hoan hỷ,
Với pháp bậc Thánh thuyết.
Người trị thủy dẫn nước,
Kẻ làm tên nắn tên,
Người thợ mộc uốn gỗ,
Bậc trí nhiếp tự thân.
Như đá tảng kiên cố,
Không gió nào lay động,
Cũng vậy, giữa khen chê,
Người trí không dao động.
Như hồ nước sâu thẳm,
Trong sáng, không khuấy đục,
Cũng vậy, nghe chánh pháp,
Người trí hưởng tịnh lạc.
Người hiền bỏ tất cả,
Người lành không bàn dục,
Dầu cảm thọ lạc, khổ ,
Bậc trí không vui buồn.
Không vì mình, vì người,
Không cầu được con cái,
Không tài sản quốc độ,
Không cầu mình thành tựu,
Với việc làm phi pháp,
Vị ấy thật trì giới,
Có trí tuệ đúng pháp.
Ít người giữa nhân loại,
Đến được bờ bên kia,
Còn số người còn lại
Xuôi ngược chạy bbờ này.
Nhữngg ai hành trì pháp,
Theeo chánh pháp khéo dạy,
Sẽ đến bờ bên kia,
Vượt ma lực khó thoát.
Kẻ trí bỏ pháp đen,
Tu tập theo pháp trắng,
Bỏ nhà sống không nhà,
Sống viễn ly khó lạc.
Hãy cầu vui niết bàn,
Bỏ dục, không sở hữu,
Kẻ trí tự rữa sạch,
Cấu uế từ nội tâm.
Những ai với chánh tâm,
Khéo tu tập giác chi,
Từ bỏ mọi ái nhiễm,
Hoan hỷ không chấp thủ,
Không lậu hoặc sáng chói,
Sống tịch tịnh ở đời.
Trang Chủ   P.T Pháp Âm  Âm Nhạc  Gởi Thiệp  Hình Ảnh  Lưu Niệm  Phim Truyện
Copyright@2006 - Trung Tâm Phật Giáo - Chùa Việt Nam
10002 Synott Rd, Sugar Land, Texas 77478 .Điện Thoại (281) 575-0910