Tin Cập Nhật
|
|
|
| |
|
Những Bài Viết Cùng Thể Loại |
Thiền duyệt có nghĩa là sự an vui trong thiền tập. Khi mới bắt đầu tập thiền, tôi tưởng muốn an tâm và phát triển định lực ta cần phải có một sự cố gắng vất vả ghê gớm lắm. Tôi còn nhớ trong khóa tu thiền đầu tiên, tâm tôi cứ suy nghĩ lung tung và chu du đi khắp mọi nơi. Ðến một lúc bực mình quá, tôi tự nhủ là nếu nó xảy ra lần nữa thì tôi sẽ đập đầu vào tường cho biết! Nhưng thật may cho tôi, lúc ấy tiếng chuông báo |
Xem tiếp... |
|
Lời nói đầu
Lẽ thật là không ai muốn đau khổ và mọi người đều tìm kiếm hạnh phúc. Trong thế giới của chúng ta, con người cố gắng làm mọi cách để phòng ngừa và làm giảm đau khổ, đồng thời hưởng thụ hạnh phúc. Tuy nhiên, tất cả cố gắng của con người đều chỉ hướng về phúc lợi của thân và về mặt vật chất. Hạnh phúc, thật ra, bị điều kiện hoá bởi thái độ của tâm thức, và chỉ có vài người thật sự nghĩ đến việc phát triển khía cạnh tâm thức, và lại rất ít người lại chịu thực tập thiền định một cách miên mật. |
Xem tiếp... |
|
|
Tranh chăn trâu, hiện có ở các chùa thuộc hệ Bắc Tông thường có treo. Song, đa số người tu nhìn thấy mà không biết ý nghĩa tượng trưng qua tranh như thế nào. Vậy chúng ta nên tìm hiểu cho thấu đáo.
Ðây là bài tựa của Trúc Thiên nói về xuất xứ cuả mười mục chăn trâu, tương đối khá đầy đủ.
Mục Ngưu Ðồ là TRANH CHĂN TRÂU. Tranh ra đời từ triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được. Ðiều chắc chắn là tranh có từ xa xưa lắm, ban đầu chỉ có sáu bức, sau thất lạc luôn. Mãi đến đời Tống, thế kỷ thứ 12, nhiều bộ tranh mới bắt đầu xuất hiện từ các Tòng lâm, Thiền Viện, phản ảnh nhiều khuynh hướng khác nhau trong sự tu tập. Như vậy là không chỉ có một bộ mà có nhiều bộ Mục Ngưu Ðồ khác nhau, tất cả đều đượm nhuần tinh thần Phật giáo Bắc Tông. Trong số ấy hiện nay được truyền tụng nhất là tranh của hai họa sĩ áo nâu THANH CƯ và QUÁCH AM.
|
Xem tiếp... |
|
TRANH THIỀN TÔNG SỐ 1 : TÌM TRÂU
Dẫn
Từ lâu chẳng mất đâu cần kiếm tìm. Do trái tánh giác trở thành xa cách. Bởi theo vọng trần bèn thành khuất lấp. Quê nhà dần xa lối tẻ chợt lầm. Ðược mất dấy lên phải quấy đua khởi.
Giảng Giải
|
Xem tiếp... |
|
TRANH THIỀN TÔNG SỐ 2 : THẤY DẤU
Dẫn
Nương kinh để hiểu nghĩa, xem giáo lý tìm dấu vết. Biết rõ vòng, xuyến... đều là vàng, cả thảy muôn vật là chính mình. Chánh tà chẳng cần biện biệt, chơn ngụy đâu cần phân chia. Chưa vào cửa này tạm gọi là thấy dấu.
Giảng Giải
|
Xem tiếp... |
|
TRANH THIỀN TÔNG SỐ 3 : THẤY TRÂU
Dẫn
Từ tiếng được vào, chỗ thấy liền đúng. Cửa sáu căn rành rõ không sai, trong động dụng rành rành hiển lộ. Chất muối trong nước, sắc xanh trong keo. Vén chân mày lên chẳng phải vật khác.
Giảng Giải
|
Xem tiếp... |
|
TRANH THIỀN TÔNG SỐ 4 : ÐƯỢC TRÂU
Dẫn
Vùi lấp ngoài đồng hoang đã lâu, ngày nay gặp được y. Do cảnh đẹp nên khó đuổi, mến cỏ non chẳng chịu thôi. Tâm ngang ngạnh khá mạnh, tánh hoang dã vẫn còn. Muốn được thuần hòa cần phải roi vọt.
Giảng Giải
|
Xem tiếp... |
|
TRANH THIỀN TÔNG SỐ 5 : CHĂN TRÂU
Dẫn
Nghĩ trước vừa dấy, niệm sau liền theo. Do giác nên được thành chơn, bởi mê lầm nên làm thành vọng. Chẳng phải do cảnh có, chỉ tự tâm sanh. Dây mũi nắm chắc không cho toan tính.
Giảng Giải
|
Xem tiếp... |
|
TRANH THIỀN TÔNG SỐ 7 : QUÊN TRÂU CÒN NGƯỜI
Dẫn
Pháp không hai pháp, trâu gọi là tâm. Dụ tên khác của thỏ bẫy, bày sai biệt của cá tôm. Như vàng ra khỏi khoáng, tợ trăng không mây. Một đường quang sáng, ngoài kiếp oai âm.
Giảng Giải
|
Xem tiếp... |
|
Trở Về Tiếp Theo |
|
|
|
|
|
|
|
Kinh Pháp Cú
|
|
|